Tác giả khẳng định điều mình cho là đúng hoặc phủ nhận điều mà mình cho là sai. Chúng có thể được áp dụng trong quá trình đọc chừng nào còn có một quá trình đối thoại giữa người đọc và người viết. Trong đó, phần đầu tiên nói về…, phần thứ hai nói về…, phần thứ ba nói về…, (2) Phần thứ nhất lại bao gồm mấy nội dung nhỏ hơn: nội dung đầu tiên xem xét chủ đề X, nội dung thứ hai bàn về vấn đề Y, nội dung thứ ba đề cập đến Z…, (3) Trong nội dung đầu của phần thứ nhất, tác giả nêu ra mấy luận điểm.
Xét trên khía cạnh nào đó, bạn không cần đặt ra câu hỏi này khi đọc tiểu thuyết, truyện, kịch hoặc thơ, tức là bạn không phải thực hiện thêm bất cứ hành động nào. Nhưng làm cách nào để phân biệt chính xác giữa hai điều này? Đơn cử như Euclid, Galileo, Newton - những tác giả viết theo phong cách toán học hoặc số học có xu hướng biến mỗi đoạn văn thành một đơn vị lập luận.
Hầu hết mọi người được dạy là phải chú ý đến những điều mình không hiểu; phải tra từ điển khi gặp lại những từ lạ; tìm trong sách tham khảo nếu gặp những nhận định khó hiểu; tìm sự trợ giúp ở phần ghi chú, giải thích của các học giả hay các nguồn hỗ trợ khác… nhưng nếu vội vàng làm những điều này thì chúng chỉ ngăn cản chứ không giúp gì cho việc đọc của chúng ta. Vì thế, bạn nên luôn luôn tưởng tượng rằng, khi bạn đọc lời thoại của nhóm Chorus thì đó là lời nói của những người có sức vóc như bạn. Khi đó độc giả nợ tác giả một lời đánh giá.
Họ đưa vào đầu mình một chính kiến giống như đưa một băng cassette vào trong máy cassette. Tất nhiên một cuốn bách khoa toàn thư vẫn được phép ghi lại ý kiến các nhân (ví dụ, trong một cụm từ như một số người cho rằng…, số khác lại thấy…) nhưng cần phải nói rõ ràng. Vì thế, bạn nên luôn luôn tưởng tượng rằng, khi bạn đọc lời thoại của nhóm Chorus thì đó là lời nói của những người có sức vóc như bạn.
(3) Bên cạnh việc tối giản hoá sự thống nhất, bạn còn phải tìm ra phương thức tạo nên chỉnh thể thống nhất đó từ tất cả các thành phần đơn lẻ. Điều này không có nghĩa là nhà khoa học và người nguyên thuỷ kia không thể thống nhất với nhau về bất kỳ dữ kiện nào, mà cả hai phải đồng ý rằng một chỉnh thể vật chất bao giờ cũng lớn hơn bất kỳ bộ phận nào trong nó. Cũng như với phần mục lục, bây giờ bạn có thể kiểm tra bảng chỉ dẫn của cuốn sách này.
Sau đay là một số gợi ý giúp bạn. Không giống sách hướng dẫn, sách triết học quy phạm dùng các từ phổ biến mô tả phương thức nên sử dụng để đạt các mục tiêu này. Tác phẩm bàn về một chủ đề quan trọng mà tất cả chúng ta ngày nay đặc biệt quan tâm - khủng hoảng môi trường.
Không khó để phác hoạ lại cấu trúc một tác phẩm khoa học xã hội nhưng để đồng tình với những gì tác giả đưa ra thì không hề dễ vì hầu như mọi tác giả đều không thể quy định việc sử dụng từ ngữ của họ. Dù trong sách có thể có thêm những phần thảo luận nhưng tất cả đều phục vụ các quy tắc. Cũng có trường hợp ngoại lệ.
Tuy nhiên, nếu chưa làm được như vậy thì một bản tóm tắt hoặc một dàn ý sẽ là công cụ trợ giúp bạn đắc lực. Nếu bạn hiểu nhận định ẩn chứa trong câu, tức là bạn đã hoàn toàn hiểu được các thuật ngữ. Thí nghiệm mà các tác giả trên nói đến chưa chắc đã được họ thực hiện trong phòng thí nghiệm.
Từ này có gốc từ tiếng Hy Lạp nghĩa là ý kiến đúng. Khi đọc một cuốn sách thiên về các quy tắc thì những nhận định chủ yếu cần tìm phải là các quy tắc. Nhưng nếu bạn hỏi một cuốn sách, thì chính bạn phải trả lời câu hỏi, tức là bạn phải tự suy nghĩ và phân tích.
Chúng tôi đã phải đọc soát vài lần nhiều cuốn sách, bài báo và các đoạn văn khác. Đến đầu hồi III, Hamlet vào và nói một đoạn độc thoại nổi tiếng, bắt đầu bằng Tồn tại hay không tồn tại. Vì thế, tác phẩm của Commoner dù chủ yếu là lý thuyết nhưng lại có tầm quan trọng vượt lên trên lý thuyết và đi vào thực tế.