Quy tắc trên cũng được áp dụng với các bài tóm tắt và trình bày cốt truyện. Vậy mối quan hệ giữa các giai đoạn và cấp độ này là gì? Vì thế, có thể khẳng định rằng chúng ta không nên và không thể đọc một cuốn sách nào một cách cô lập hoàn toàn.
Tưởng tượng rằng, có một số diễn viên tài năng đang chờ bạn chỉ đạo. Để biết bất cứ điều gì, chúng ta phải vận dụng khả năng đánh giá và lý luận. Mặc dù hầu hết các chuyện kể lịch sử đều gần với tác phẩm hư cấu hơn là tác phẩm khoa học thì bạn vẫn nên đọc chúng như những tác phẩm mô tả.
Nhưng bạn cũng không nên nghĩ rằng không có sự thay đổi vè phương diện từ đồng nghĩa khi thuật ngữ vẫn được giữ nguyên. Kể từ đó, hầu hết các cuốn bách khoa toàn thư lớn đều được biên soạn theo trình tự bảng chữ cái. Chúng ta luôn trộng đợi một tác giả có năng lực sẽ vượt qua mọi rào cản ngôn ngữ để đến với độc giả, nhưng thực tế không tác giả nào có thể hoàn toàn tự mình gánh vác nhiệm vụ này.
Giả sử nếu ông sử dụng từ reading theo một nghĩa khác ở một phần khác trong cuốn sách - chẳng hạn trong cụm từ reading nature (bản chất của việc đọc) thì độc giả vẫn dễ dàng nhận thấy sự chuyển đổi sắc thái ý nghĩa của từ reading. Sẽ là sai lầm nếu cho rằng học bằng khám phá là cách học chủ động, còn học nhờ hướng dẫn là cách học bị động. Bốn câu hỏi trên đã tóm lược nhiệm vụ tổng thể mà một độc giả phải làm.
Chúng tôi chỉ ra sự tương phản giữa đọc tích cực và đọc thụ động nhằm hướng mọi người chú ý đến một thực tế là việc đọc ít nhiều đều phải tích cực và càng đọc tích cực, càng có hiệu quả. Những sách chỉ dẫn cho bạn cách làm gì đó, ví dụ như sách dạy nấu ăn hay sách hướng dẫn lái xe, không tranh luận rằng bạn phải trở thành một đầu bếp hay tài xế giỏi, chúng chỉ bày cho bạn cách thành công. Tại sao việc đánh dấu vào một cuốn sách lại là điều không thể thiếu khi đọc sách? Thứ nhất, nó giúp bạn tỉnh táo hoàn toàn .
Sau đó, bạn có thể dựa vào những trang này để phân tích cuốn sách. Tóm lại, bất đồng là những vấn đề có thể tranh luận được. Nhưng khi đã lớn, chúng ta vẫn thắc mắc về sự khác nhau đó.
Không dễ tìm ra chân lý của loại vấn đề này. Chúng tôi đã lưu ý, trong phương pháp đọc này, các cuốn sách bạn đọc sẽ phục vụ mục đích của bạn chứ không phải bạn đọc vì cuốn sách. Họ trình bày thẳng thắn về các quan điểm triết học chứ không đưa ra các mâu thuẫn về ý kiến hay giả thuyết như của Platon.
Hầu hết các bài báo về khoa học thường dễ đọc hơn các cuốn sách khoa học thông dụng. Đến đây, bạn chỉ cần hiểu rằng nếu cùng đọc một tài liệu, người này sẽ đọc hiệu quả hơn người kia nhờ đọc tích cực hơn, và thực hiện các hoạt động có liên quan tài tình hơn. Vì thế, nhiều người cho rằng thói quen là khả năng thiên bẩm thứ hai.
Thậm chí rắc rối nằm ngay trong những từ như triết học và khoa học vì chúng vốn được sử dụng rất đa dạng. Trẻ có thể dễ dàng đọc các biển báo trên đường, lời chú thích trên các bức tranh, điền vào các biểu mẫu đơn giản… Giai đoạn đọc sơ cấp thứ tư và cũng là cuối cùng có thể đạt được vào cuối cấp tiểu học, hay trung học cơ sở. Khi một đứa trẻ có thể kể tên tất cả các cách kết hợp đã được xác định, coi như em đã thông thuộc bảng chữ cái.
Bạn có thể phản đối một trong các nhận định đó và tán thành những nhận định còn lại. Nhưng ngay cả khi độc giả không bị thuyết phục thì ý định và nỗ lực của tác giả cũng cần được trân trọng. Có thể tóm gọn các đặc điểm của cách đọc này trong từ chính thống.