Đôi lúc các bước này có thể được bỏ qua mà không gây ra điều gì bất tiện vì từ kiến thức chung của bản thân độc giả vẫn khôi phục được những nhận định không được nhắc tới. Việc viện đến các yếu tố đặc trưng thường kém thuyết phục hơn, nhưng lại có thể giải thích các quy tắc cặn kẽ hơn so với việc lấy ví dụ về việc sử dụng các quy tắc. Cũng như quy tắc về từ và thuật ngữ, ở đây, chúng ta sẽ xem xét mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy.
Những sách chỉ dẫn cho bạn cách làm gì đó, ví dụ như sách dạy nấu ăn hay sách hướng dẫn lái xe, không tranh luận rằng bạn phải trở thành một đầu bếp hay tài xế giỏi, chúng chỉ bày cho bạn cách thành công. Quá trình đọc hiểu phụ thuộc vào việc bạn có nhận ra được những mối liên hệ đó hay không. Ví dụ, khi bạn gặp một từ không biết, bạn phải tra từ điển.
Cố gắng định nghĩa từ này là một vấn đề gây nhức đầu và bạn phải tìm hiểu sâu về triết học để hiểu được vấn đề. Bạn nhận biết được tầm quan trọng của những từ này vì chúng xuất hiện trong các tiên đề. Ai cũng đã ít nhiều dùng các từ lý thuyết và thực hành, nhưng chưa hẳn tất cả đều hiểu hết ý nghĩa của chúng.
Vì vậy, chúng ta cần phải dùng lối đi tắt trong đọc đồng chủ đề. Những vấn đề về thực tế hay quan điểm, những nhận định về cách tồn tại của các sự vật hay cách mà chúng nên tồn tại chỉ trở thành điều đáng bàn cãi khi chúng được dựa trên sự đồng hiểu biết giữa các bên. Ít nhất, vị kỷ và vị tha có điểm chung về xu hướng, về ham muốn theo khía cạnh rất trừu tượng của hai từ này.
Loại thứ nhất là tiểu sử cuối cùng, được coi như lần nghiên cứu cuối cùng, thấu đáo và khoa học về cuộc đời một ai đó đủ quan trọng để xứng đáng có một cuốn tiểu sử về toàn bộ cuộc đời họ. Kết quả là họ chẳng bao giờ thật sự đọc một vở kịch của Shakespeare. Nó có ý nghĩa và sức mạnh đối với tất cả mọi người.
Ở cấp độ một, câu hỏi đặt ra cho người đọc là Câu đó ý nghĩa nói gì?. Vì thế cần phải đọc đúng lịch sử. Còn độc giả các tác phẩm thơ ca hay giả tưởng không hành động như vậy, mà tuỳ theo tác phẩm tác động đến độc giả như thế nào thì độc giả hành động như thế.
Nhưng nếu tác phẩm nặng về lý thuyết thì người đọc chỉ thực hiện hành động về mặt tinh thần. Bài thơ cũng viết về mối xung đột giữa tình yêu và thời gian, mặc dù từ thời gian không hề xuất hiện trong bài. Nếu mọi từ trong cuốn sách bạn đang đọc đều xa lạ đối với bạn, như trường hợp bạn đọc một cuốn sách hoàn toàn bằng tiếng nước ngoài, thì bạn sẽ chẳng bao giờ tiến bộ được.
Khi đó, chân lý hay giải pháp cho vấn đề lại có trong cuộc thảo luận theo trình tự nhiều hơn là có trong bất cứ chuỗi nhận định hoặc khẳng định nào về nó. Độc giả có thể phải chứng kiến các thí nghiệm minh hoạ trong phòng thí nghiệm; xem xét và nắm bắt các tình huống tương tự trong sách; đến bảo tàng quan sát các mẫu hoặc các mô hình… Thứ ba, trước khi tham khảo một cuốn sách, bạn phải biết rõ cuốn sách đó được kết cấu như thế nào, từ đó biết cách sử dụng nó.
Vì thế, có thể bạn phải thừa nhận một nguyên nhân khởi phát nào đó mà bản thân nó không có nguyên nhân. Dấu hiệu của phong cách này là khi bạn đọc các tác phẩm của Spinoza, bạn có thể bỏ qua rất nhiều giống như cách bạn đọc tác phẩm của Newton. Nhưng điều bạn học được là một dữ kiện về cuốn sách, hay một dữ kiện về thế giới? Nếu bạn chỉ sử dụng mỗi trí nhớ, bạn sẽ không thu thập thêm gì ngoài thông tin, tức là bạn chưa được khai sáng.
Dù tán thành hay phản đối, bạn đều có khả năng mắc sai sót. Chúng tôi không có ý nói rằng văn học giả tưởng luôn luôn hoặc nhất thiết phải siêu thoát. Và khi đã bắt đầu với một tác giả, bạn rất dễ đi đến tìm hiểu văn cảnh tác phẩm.