Toàn bộ bài thơ nói lên một điều mà không bao giờ có thể giới hạn trong khuôn khổ các nhận định. Cho đến năm 1930 và vài năm sau đó, sách triết học vẫn được viết cho độc giả bình thường. Nó cần phải được hoàn thành bằng việc phê bình, đánh giá sách.
Chúng xuất hiện khi người viết muốn tránh tình trạng mập mờ về nghĩa, và người đọc cố hiểu từ đó theo đúng ý người viết đã dùng. Đó là khám phá có sự trợ giúp. Thơ được định nghĩa một cách đơn giản là những gì thi sĩ viết ra.
Cấp độ đọc kiểm soát có khuynh hướng trả lời hai câu hỏi đầu chính xác hơn hai câu hỏi sau. Bạn sẽ không theo được tính liền mạch và trình tự nội dung cuốn sách nếu ngay từ đầu đã phải tra quá nhiều từ. Chuyển sang giai đoạn tiếp theo, bạn cần tuân theo bốn quy tắc đọc nữa, nhưng trước tiên là phải thống nhất các thuật ngữ sau khi đã vạch rõ được cấu trúc cuốn sách.
Có bao nhiêu loại thay đổi? Có phải các yếu tố hay điều kiện cơ bản đều có mặt trong mọi quá trình biến đổi và trong mọi trường hợp các nguyên nhân đều giống nhau không? Chúng ta ngụ ý gì khi nói nguyên nhân thay đổi? Có các loại nguyên nhân khác nhau gây thay đổi? Các nguyên nhân gây thay đổi có giống các nguyên nhân tồn tại không? Lịch sử không phổ quát được như vậy. Nó được Nietzsche và một số nhà triết học người Pháp hiện đại khác dùng trong các tác phẩm như Thus Spake Zarathustran (Zarathustra đã nói thế).
Kinh nghiệm chung là loại có ở tất cả mọi người. Tóm lại, một bài viết phải thống nhất, rõ ràng và mạch lạc. Có một điều đáng ngạc nhiên là rất nhiều người chẳng bao giờ ngó đến mục lục trừ phi họ phải tìm một phần nào đó, trong khi tác giả đã phải dành nhiều thời gian để xây dựng phần này rất công phu.
Điều này hoàn toàn có thể xảy ra, giống như trường hợp ý kiến mà ai cũng đồng ý hoá ra lại sai; ý kiến không được nói ra lại đúng hoặc gần đúng. Riêng cụm từ vấn đề xã hội là một ví dụ về sự giản đơn bên ngoài liên quan đến cả việc đọc và viết tác phẩm khoa học xã hội. Đôi khi, một cuốn sách liên quan và bị phụ thuộc về mặt ý nghĩa vào nhiều cuốn sách khác vì chúng cùng chung tác giả.
Đơn vị logic mà quy tắc 7 hướng tới là lập luận - một chuỗi những nhận định, cái nọ bổ trợ cho cái kia. Nó ít quan trọng hơn khi đọc tiểu thuyết hay đọc kịch vì người ta có thể đọc riêng lẻ một tiểu thuyết hay một kịch bản thật sự hay. Bạn chỉ mệt mỏi vì thất vọng nếu cố gắng của bạn bị thất bại do thiếu kỹ năng.
Phương pháp đọc đồng chủ đề đã được trình bày hết ở trên. Khi nói về một hoạ sĩ, hay là một nhà điêu khắc tài ba, nhiều người cho rằng Ông ta chẳng theo quy luật nào cả. Vậy làm như thế nào để phân biệt được sách về triết học và sách khoa học? Nếu một cuốn sách tập trung nói về những điều nằm ngoài phạm vi kinh nghiệm thường ngày, lặp đi lặp lại của bạn, thì đó là sách khoa học.
Tất cả mọi người đều đồng ý với những ngày tháng trên và có lẽ các cuốn lịch của Mỹ không bị sai vào thời điểm này. Trong bất cứ trường hợp nào, những tiêu đề chương được liệt kê ở phía trước cũng có tác dụng khuếch đại tầm quan trọng của tiêu đề chính. Vì thế, cách chúng ta kiểm tra giả thiết này không giống như kiểm tra giả thiết trong toán học.
chúng ta cũng không nên hỏi điều gì xảy ra cho Pierre và Natasha sau khi Chiến tranh và hoà bình kết thúc. Bạn phải hiểu rõ tính thống nhất này. Khi nói rằng quá trình phân tích của tác giả chưa hoàn chỉnh nghĩa là chúng ta cho rằng tác giả chưa giải quyết được tất cả các vấn đề đặt ra trước đó; chưa tận dụng được các tài liệu của mình một cách tốt nhất; hoặc không nhận ra các ý tiềm ẩn cũng như những nhánh khác nhau của vấn đề đặt ra; hoặc không làm nổi bật được nét khác biệt và độc đáo liên quan tới vấn đề được nêu.